Đề bài: Phân Tích Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc Lớp 11 Của Nguyễn Đình Chiểu | Văn Mẫu
Bài Làm
Năm 1861, cuộc nổi dậy của những người nông dân Cần Giuộc chống lại ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp đã để lại những trang sử hào hùng của dân tộc. Cuộc tiến công tuy thất bại nhưng ý nghĩa và những gì mà nó làm nên là vô cùng to lớn. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời là bản hùng ca ca ngợi chiến công và tưởng nhớ những người lính ấy. Mặc dù viết theo yêu cầu của quan Tuần phủ thành Gia Định nhưng từng câu từng chữ trong bài thơ lại như chính những nỗi niềm, tấm lòng chân thành nhất của nhà thơ, như lời ngợi ca và tri ân sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu đến nghĩa quân Cần Giuộc.
Bài thơ được mở đầu bằng câu thơ “Hỡi ôi! – Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ…” Hai câu thơ như lời thở than kêu gọi có trời đất chứng giám, tấm lòng của người dân có trời làm chứng, súng giặc làm đất này rền lên, giặc đã xâm lấn bờ cõi phương Nam, người dân không còn cách nào khác là phải đứng lên. Câu thơ mở đầu như một tiếng kêu ai oán lại như khẳng định trước bàn dân thiên hạ về một sự thật giãi bày, cái mà nhà thơ viết ra đây cũng là hoàn toàn dựa trên sự thật viết về những người anh hùng lòng không thẹn với trời.
“Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn;
Riêng lo nghèo khó.
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”.
Nếu không có chiến tranh, nếu không có sự xâm lăng, những người lính Cần Giuộc cũng chỉ là những người nông dân chân lấm tay bùn, những con người thuần nông hoàn toàn bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Họ có những nhọc nhằn và lo toan, nhưng đó là nỗi no cơm ăn áo mặc, những lo lắng vật chất trong cuộc sống hàng ngày mà họ vốn chỉ biết đến làm ăn. Những người nông dân ấy, vốn đâu quen tới cung tên, ngựa, trường đua là gì. Thay vì ngựa, họ quen và gần gũi với loài trâu hơn, thay vì những trường đua rộng lớn, họ quen ở trong làng trong tổng cùng bà con.
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm – Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó”. Những công việc mà họ làm là những công việc thuần nông của những người nông dân thực thụ, chứ chưa hề biết qua mùi binh đao máu chảy. Hai câu thơ như hai vế đối đối lập, một bên là những người nông dân chất phác nhân hậu tay chỉ quen những nông cụ thô sơ để kiếm ăn, một bên lại là quân địch xâm lăng hùng mạnh với những vũ khí hiện đại. Xét tương quan hai bên lực lượng, rõ ràng, chúng ta sinh ra không phải để đánh nhau.
“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.
Người nông dân xưa nay vốn hiền lành nhân hậu là vậy nhưng nay đứng trước những tội ác trời không dung của lũ giặc thì trong họ như bật dậy một tính cách hoàn toàn khác, một con người có những nỗi căm thù, uất hận. Họ mong chờ lệnh từ trên ban xuống để đi diệt giặc như trời hạn mong mưa. Trước sự càn quấy, cướp bóc của thực dân cái “thói mọt” sách nhiễu, quấy phá dân lành, những người nông dân căn phẫn ghét cay đắng như ghét giống cỏ mọc lên để lấy hết dinh dưỡng của những cây lúa. Lòng thù hận trong những con người vốn thật thà chất phác cũng có lúc dâng lên đến mãnh liệt, cực điểm đến vậy.
“Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Chính vì lòng căm thù đối với những tội ác của giặc mà không cần quan quân phải đòi bắt phu phen, lính tráng, tự dân tự lòng dân đã mong mỏi được ra sức đứng lên chống lại ách thực dân .

“Khá thương thay:
Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, đâu chờ bày bố.
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi;
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ.
Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ”.
Ở đoạn văn tiếp theo, tác giả đã vẽ ra một bức tranh chiến đấu oai hùng của nghĩa quân Cần Giuộc với hai bên sức lực, vũ khí hoàn toàn chênh lệch. So về quân số, vũ khí, khả năng tập luyện ta thua xa địch nhưng so về khí thế, lòng căm thù và sự quyết tâm địch lại thua xa ta. Nghĩa quân Cần Giuộc vốn xuất thân là những người nông dân thuần phác, nay đứng lên áo vải cờ đào. So với vũ khí lợi hại của thực dân, ta chỉ có trong tay ngọn tầm vông, cây giáo cây mác, những thứ tưởng chừng cũng chỉ có thể dùng trong trồng trọt vậy nhưng nay lại đốt nhà những tên thực dân, chém đầu bè lũ quan lại độc ác.
“Chi nhọc quan quản trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.
Những lăm lòng nghĩa lâu dùng;
Đâu biết xác phàm vội bỏ”.
Trước những súng đạn của kẻ thù, cả nghĩa quân không hề sợ hãi lùi bước mà ngược lại lại mạnh mẽ tiến công, khiến cho quân địch cũng phải run sợ.
“Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.
Đoái sông Cầm Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ”.
Cuộc nổi dậy của nghĩa quân Cần Giuộc được ghi lại trên từng cảnh vật thân quen, từ con sông Cần Giuộc đến chợ Trường Bình… tất cả đều là những nhân chứng sống cho trận chiến oai hùng, cho những cái chết, sự hy sinh cao cả, thiêng liêng.
“Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm;
Vốn không giữ thành, giữ luỹ bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.
Nhưng nghĩ rằng:
Tấc đấc ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.
Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai xui hào luỹ tan tành, xiêu mưa ngã gió”.
Chính bè lũ thực dân là những người tràn tới cướp đi miếng cơm manh áo của người dân, trà đạp lên cuộc sống, nhân phẩm của dân, lấy đi miếng cơm manh áo những con người khó nhọc làm ra.
“Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh;
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ”.
Những người nông dân tuy nghèo khổ ít học là vậy nhưng họ đã chọn chiến đấu, chọn cầm giáo mác đứng lên chứ không chịu sống mà theo quân tà đạo, núp dưới bóng của quân thù. Tư tưởng thà chết mà làm ma tự do, khảng khái đi theo cha ông còn hơn sống mà làm những người nô lệ, dưới sự áp bức bóc lột của bè lũ thực dân. Những câu thơ gợi lên câu nói của vị vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng của Triều đại phong kiến Việt Nam “thà làm dân của một nước tự do còn hơn làm vua của một đất nước nô lệ”.
“Ôi thôi thôi!
Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn bấy! mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Não nùng thay! vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”.
Cuộc chiến đấu của nghĩa quân tang thương bao nhiêu thì cũng oai hùng bi tráng bấy nhiêu. Vì tự do, vì miếng cơm manh áo và nhân phẩm bị chà đạp mà họ phải vùng đứng lên phải để lại sau lưng mẹ già, vợ trẻ con thơ, cuộc sống của những con người yếu đuối, sức lao động kém. Thế mới thấy được sự ác độc của thực dân, sự tàn nhẫn của chiến tranh đối với con người, với hạnh phúc mỗi gia đình.
“Ôi!
Một trận khói tan;
Nghìn năm tiết rỡ.
Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm cho bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ”.
Cuộc chiến của nghĩa sĩ Cần Giuộc, tuy phải hy sinh và mất mát nhưng đó là sự hy sinh vĩ đại và ý nghĩa, nó được ghi tạc lại trong mọi vật cỏ cây, trong tấm lòng những người còn sống. Tiếng thơm ấy muôn đời sau còn để. Đoạn thơ cũng cho thấy tình cảm thương xót của người dân, của chính tác giả với những người đã khuất, dù họ đã ra đi nhưng sự ra đi của họ sẽ được mãi mãi ghi sâu tưởng nhớ.
“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân;
Cây hương nghĩa sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ”.
Đứng trước tượng đài anh linh của những người lính, Nguyễn Đình Chiểu như lặng lẽ cúi mình, tưởng nhớ về sự oai hùng quả cảm của nghĩa quân, đồng thời tiếc thương đau xót cho những người đã ra đi vì hào khí, để lại mẹ già con thơ. Nhà thơ bày tỏ sự tri ân của mình tới công lao của các anh hùng, những người đã ngã xuống nhưng tiếng thơm còn mãi, để lại những bài học sâu sắc cho các thế hệ muôn đời sau.
Bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” đã vượt qua phạm vi của một bài điếu văn thông thường, đó là một bức tượng đài được viết lên bằng ngôn từ, bằng những vần thơ của một nhà nho, một người dân vùng đất miền Nam bị chiếm đóng tưởng nhớ đến những người anh hùng áo vải cờ đào. Quả thật, Nguyễn Đình Chiểu đã để lại ngoài những vần thơ đượm chất trữ tình còn để lại những trang sử hào hùng, bi tráng của người lính Cần Giuộc nói riêng và của cả dân tộc Việt Nam nói chung.