Đề bài: Phân tích bài thơ việt bắc của Tố Hữu
BÀI LÀM
Được mệnh danh là người có khả năng biến chính trị thành thơ, tác giả Tố Hữu quả thật luôn khiến cho cuộc sống lao động, kháng chiến cùng những tình cảm thiết tha với quê hương đất nước của con người thành những vần thơ thấm đượm tính nhân văn và dễ đi vào lòng người đọc. Tác phẩm Việt Bắc chính là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của phong cách thơ Tố Hữu. Với trích đoạn Việt Bắc, tác giả đã tái hiện một giai đoạn gian khổ nhưng vẻ vang của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tại chiến khu Việt Bắc cùng những tình cảm sâu lắng trong lòng người chiến sỹ:
"Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay".
Suốt cả bài thơ Việt Bắc, có thể dễ dàng nhận thấy nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng cách xưng hô ta – mình, chính cách xưng hô này đã đưa người đọc trở về với bầu không khí ca dao, dân ca gợi lên sự yêu thương gần gũi trong tình cảm con người.
Quãng thời gian 15 năm được nhắc đến ngày ở đoạn đầu của bài thơ, đây là quãng thời gian đủ dài trong cuộc đời của một con người để khẳng định tình cảm của mình. 15 năm ở đây có tính chất nhấn mạnh, gợi những kỷ niệm không thể nguôi trong suốt thời kỳ kháng chiến. Hai tính từ "thiết tha", "mặn nồng" càng khẳng định sự gắn bó sâu lặng đầy tình nghĩa ấy.
Hai câu hỏi tu từ "có nhớ ta", "có nhớ không" như một sự nhắc nhở, cảnh cáo bởi theo quy luật của cuộc sống, con người từ nơi gian khổ đến nơi an nhàn rất hay quên tình nghĩa xưa.
Câu thơ "Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn" khiến người ta liên tưởng đến câu tục ngữ "Uống nước nhớ nguồn"; đây là đạo đức, là lẽ sống của dân tộc ta, đồng thời cũng là cảm xúc chủ đạo của bài thơ.
Ở khổ thơ tiếp theo, tác giả nhắc đến lời của người ra đi. Khi nghe vang vọng "Tiếng ai tha thiết bên cồn" người ra đi dường như đang tự hỏi có thể là tiếng nói của người Việt Bắc nhưng cũng có thể là tiếng lòng của người ra đi trong một tâm trạng xao xuyến đến tột độ.
Hàng loạt từ láy được sử dụng trong khổ thơ "tha thiết", "bâng khuâng", "bồn chồn" đã chỉ ra những sắc thái tâm trạng, chỉ ra sự lưu luyến không muốn xa rời của người ra đi.
"Áo chàm đưa buổi phân li", "áo chàm" là hình ảnh hoán dụ dùng để chỉ đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc và có lẽ đây sẽ là hình ảnh lắng đọng mãi trong tâm trí của người ra đi.
Ở câu thơ cuối cùng, tác giả đã diễn tả sự xúc động đến tột độ không thể nói lên lời. Có biết bao điều muốn nói mà giờ đây không thể cất nên lời cho nên chỉ có thể cầm tay nhau siết chặt để trao niềm tin tưởng.
Với nghệ thuật phân thân, tác giả đã miêu tả một cách rất kỳ diệu khung cảnh của một cuộc chia li đầy lưu luyến và qua đó cũng thể hiện nghĩa tình đậm sâu của mình đối với mảnh đất Việt Bắc, quê hương của cách mạng.
"Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hui lau xám đậm đà lòng son
Mình về có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa".
Đây là đoạn thơ tác giả mượn lời người ở lại để nhắc lại thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến. Đó là những ngày chồng chất khó khăn gian khổ, những ngày thử thách cách mạng kháng chiến.
Trước hết ở cặp câu thơ đầu, tác giả đã sử dụng một loạt những hình ảnh với ý nghĩa tả thực, nói lên sự khắc nghiệt của thiên nhiên miền Bắc: mưa, lũ, mây mù là đặc trưng khí hậu nơi đây và người kháng chiến thì phải đối mặt với nó.
Hình ảnh thơ gợi lên biết bao khó khăn gian nan cơ cực của những ngày đầu kháng chiến khi lực lượng ta mỏng manh yếu ớt, phải đối chọi với kẻ thù mạnh bao vây từ bốn phía (nhịp điệu dồn dập của câu thơ càng gợi bao nhiêu khó khăn chồng chất).
Hai câu thơ sau, tác giả có sử dụng nghệ thuật phân câu thơ khi nói đến những ngày gian truân, đói khổ. Hình ảnh rất thật nhưng lại gợi câu ca dao về nghĩa tình mặn mà của người "Tay nâng chén muối đĩa gừng – Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau".
Hình ảnh "mối thù nặng vai" đã cụ thể hóa một khái niệm rất trừu tượng, mối thù của bọn thực dân đế quốc đang đè nặng trên vai không phân biệt bất kỳ ai, mọi người đều phải có trách nhiệm của mình đó là việc gánh vác.
Cặp câu tiếp theo lại là những hình ảnh nói về cuộc sống gian khổ thiếu thốn phải ăn măng, quả trám thay cơm của người chiến sỹ cách mạng. Tác giả chọn cách diễn đạt như là cao lương mỹ vị đặc sản của miền Bắc, có lẽ là để nhấn mạnh tình cảm sâu nặng, sự chia ngọt sẻ bùi những thức ăn ngon trước hết là bởi tình người.
Với nghệ thuật hoán dụ, tác giả lại sử dụng hình ảnh những ngôi nhà chênh vênh nơi sườn núi hiu quạnh thưa thớt hoang sơ nhưng chủ nhân của nó lại là những con người đậm đà lòng son. Từ "son" vừa chỉ sự son sắt vừa gợi màu đỏ thắm của tình cảm đối với cách mạng.
Những câu thơ tiếp theo là những hìn ảnh mang tính chất đặc trưng biểu tượng của cuộc kháng chiến, nơi đã chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử của quân và dân ta, những cây đa Tân Trào và mái đình Hồng Thái nơi mà nhiều quyết định quan trọng của cuộc kháng chiến ra đời.
Những con người Việt Bắc nghèo nhưng giàu ân tình biết bao nhiêu:
"Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
………
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa".
Đoạn thơ là một bức tranh toàn cảnh chiến khu Việt Bắc. Hàng loạt những địa danh trong căn cứ địa được tác giả nhắc lại rõ ràng: ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê; những đồ vật thân quen như chăn sui, địu, đuốc, mõ…; những âm thanh thân thuộc "tiếng mõ rừng chiều", chày đêm nện cối, "suối xa"…, tác giả dù đã đi xa nhưng những hình ảnh đó vẫn còn in đậm trong tâm trí, là những biểu tượng thân thương không thể xóa nhòa. Qua đây người đọc cũng có thể thấy được tình cảm của nhà thơ, của người chiến sỹ với chiến khu Việt Bắc, với quê hương đất nước là vô cùng sâu đậm. Bởi vì sâu đậm nên nó đã hằn sâu trong tâm trí để nhà thơ thổn thức mỗi khi nhớ về.
"Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".
Đây là đoạn thơ miêu tả thành công nhất vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc. Qua hai đoạn thơ một lần nữa ta thấy được sự gắn bó sâu nặng, thấy tình yêu tha thiết của những con người ra đi với đất trời Việt Bắc. Đồng thời cũng thấy được vẻ đẹp tinh khiết trong sáng của núi rừng nơi đây.
Hai câu đầu của đoạn là lời của người ra đi giãi bày. Câu đầu là cầu nối, là cái cớ để bày tỏ nỗi nhớ trong câu sau "nhớ những hoa cùng người", nhớ thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp, con người Việt Bắc thủy chung nghĩa tình. Thiên nhiên hòa với con người sẽ tạo nên bức tranh tổng thể về con người Việt Bắc.
Tám câu thơ sau là sự cụ thể hóa bức tranh Việt Bắc. Cứ một câu tả cảnh lại có một câu tả người tạo cảm giác thiên nhiên con người hòa hợp tôn lên vẻ đẹp cho nhau.
Nghệ thuật tả cảnh cảnh trong đoạn này giống như một bộ tranh tứ bình (cảnh đẹp suốt bốn mùa) mùa đông trên cái nền xanh đậm bạt ngàn của cây lá bật lên những màu sắc đỏ tươi rực rỡ của những bông hoa chuối rừng. Màu đỏ ấy như xua đi cái giá lạnh làm cho không gian trở nên ấm áp hơn.
Mùa xuân cả đất trời như bừng sáng lên trong cái sắc hoa mơ trắng trong tinh khiết.
Mùa hạ cả khu rừng như ngập trong sắc vàng của hoa phách. Câu thơ không chỉ tả màu sắc mà còn tả âm thanh, cả sự chuyển động của thiên nhiên mà nhà thơ cảm nhận rất tinh tế.
Mùa thu, đêm đêm trên rừng rất trong trẻo thanh bình tràn đầy những ánh trăng.
Tóm lại thiên nhiên hiện về trong nỗi nhớ mà có cả đường nét về màu sắc giống như hiện ngay ra trước mắt. Điều ấy chứng tỏ từng nét đẹp của thiên nhiên Việt Bắc đã in sâu trong tâm trí người ra đi.
Nghệ thuật tả người được sử dụng đó là những người lao động lên phát nương làm rẫy, lấy củi, lấy măng, đan nón. Đó là những con người lao động bình dị, đơn giản giữa thiên nhiên bao la. Đó là những con người cần cù chịu thương chịu khó bền bỉ khéo léo trong lao động.
Câu cuối không tả cụ thể con người mà nhấn mạnh nghĩa tình, sự thủy chung của họ đối với cách mạng.
Nhà thơ gọi họ bằng từ phiếm chỉ, người đan nón, cô em gái, nhớ ai… khiến ta có cảm giác đó là những hình dáng mà ta thoáng gặp trên nẻo đường cách mạng nhưng bỗng đã trở thành những dấu ấn không thể phai mờ. Họ hòa mình trong thiên nhiên làm sinh động bức tranh phong cảnh, những nét vẽ về cảnh rừng Việt Bắc bớt quạnh hiu. Những hình ảnh về con người đoạn này kết hợp với những đoạn khác bài thơ làm cho người đọc có ấn tượng đẹp về những con người Việt Bắc: bình dị, cần mẫn, tình nghĩa, thủy chung với cách mạng. Nhưng nét vẽ hài hòa bởi cách sử dụng đan cài, dẫn những câu thơ tả cảnh, tả người.
Nghệ thuật phối màu toàn những màu sắc rực rỡ, thiên nhiên Việt Bắc tươi tắn suốt bốn mùa, thể hiện tình yêu tha thiết say đắm với thiên nhiên núi rừng. Ngoài màu sắc còn thấy nghệ thuật tả âm thanh, tả sự vận động của thiên nhiên.
"…
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
…
Vui từ đồng tháp An khê
Vui lên Việt Bắc đèo De, núi Hồng".
Đoạn thơ tái hiện lại khung cảnh những ngày cuối của cuộc kháng chiến, lúc này tương quan về thế lực của ta và địch đã thay đổi lớn, đoạn thơ đã tái hiện những ngày hào hùng nhất để chuẩn bị cho những trận đánh cuối cùng.
Phần đầu đoạn thơ với nghệ thuật so sánh phóng đại tác giả đã vẽ lên bức tranh về hình ảnh những đoàn quân tham gia phục vụ kháng chiến, mang những vẻ đẹp đầy tráng lệ hào hùng đầy tính sử thi.
Hình ảnh về những đoàn quân khiến ta cảm nhận họ không chỉ đông về số mà còn mạnh về chất, làm cho ta tin tưởng họ đủ sức để chiến thắng quân thù. Ở câu sau hình ảnh này lại được triển khai cụ thể hơn.
Quân đi điệp điệp trùng trùng tạo ấn tượng đội ngũ của họ triền miên không dứt, điệp trùng như núi rừng vô tận kết hợp với những từ chỉ sự tươi sáng "ánh sao đầu súng" khiến ta cảm nhận được vẻ đẹp của đoàn quân cách mạng.
"Dân công đỏ đuốc từng đoàn": Khi miêu tả những đoàn dân công phục vụ kháng chiến tác giả đã sử dụng bút pháp phóng đại để diễn tả khí thế hừng hực, hồ hởi trong những ngày ta chuẩn bị tiến tới trận đánh cuối cùng.
Tóm lại những hình ảnh về con người kháng chiến ở đây được tác giả miêu tả với bút pháp giàu chất sử thi khiến ta cảm nhận được những vẻ đẹp hào hùng tráng lệ của những đoàn quân đại diện cho sức mạnh dân tộc và ta cũng tin tưởng họ cũng đủ sức làm cho kẻ thù bạt vía kinh hồn.
Chúng ta đã tải qua thời kỳ thăm thẳm sương dày và giờ đây tương lai của cách mạng rất huy hoàng với hình ảnh đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Điệp từ "vui" xuất hiện trong bốn câu thơ kết hợp với thủ pháp liệt kê hàng loạt những địa danh ghi được chiến thắng lẫy lừng tạo ấn tượng niềm vui như đang bao trùm cả đất trời Việt Bắc. Ở đâu cũng vui, mảnh đất nào cũng ghi được chiến công.
Với cách miêu tả này, ta đã cảm nhận được cuộc đọ sức cuối cùng sắp tới, chúng ta sẽ chiến thắng.
Từ khi ra đời đến nay tác phẩm Việt Bắc vẫn luôn được nhân dân ta rất yêu mến, nhiều cụ già, bác trung niên vẫn thuộc từng câu thơ, vẫn ngâm thơ bằng một giọng điệu lúc thì hào sảng khí thế hừng hừng, có lúc lại sâu lắng, trầm mặc đầy thân thương. Quả thật cuộc kháng chiến năm ấy cùng chiến khu Việt Bắc và cuộc sống chiến đấu của nhân dân ta đã để lại biết bao ấn tượng và tình cảm đối với mỗi con người Việt Nam hôm nay.
>> XEM THÊM: